Thuật ngữ y học và dịch thuật
Nguyễn Phước Vĩnh Cố, Nguyễn Phước Vĩnh Cố, Tôn Nữ Hải Anh, Bảo Nguyên Chia sẻ
- GIỚI THIỆU
- LỜI NÓI ĐẦU
- THUẬT NGỮ CÓ NGUỒN GỐC HY LẠP VÀ LA TINH
- TỪ PHỔ THÔNG MANG NGHĨA CHUYÊN NGÀNH
- TỪ VIẾT TẮT
- Từ viết tắt vay mượn ở tiếng Anh y học
- Từ viết tắt phổ biến trong giới y học
- Từ viết tắt trong một bản kiểm tra sức khỏe
- TỪ ĐỒNG NGHĨA (SYNONYMS)
- GHÉP NHÂN DANH (EPONYMS)
- TỪ ĐỒNG NGHĨA VỚI GHÉP NHÂN DANH
- TỪ DỄ GÂY SỰ NHẦM LẪN (CONFUSABLE WORDS)
- Các từ tắt trong y khoa dễ gây sự nhầm lẫn trong dịch
- Các cặp từ tiếng Anh y khoa dễ gây nhầm lẫn trong dịch
- Tiền tố “hyper” và “hypo”
- Gốc từ “ureter(o)” và urethr(o)
- KẾT LUẬN
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
GIỚI THIỆU
Tóm tắt
Việc dịch thuật ngữ y học từ tiếng Anh sang tiếng Việt là một lĩnh vực
chuyên ngành đầy thách thức nhưng lý thú trong dịch thuật học. Tuy nhiên,
ở các trường ngoại ngữ tại Việt Nam, dịch thuật chuyên ngành nói chung
và dịch thuật y học nói riêng chưa được chú trọng một cách đặc biệt. Mục
đích chính của bài báo là phân tích và xem xét các các khía cạnh ngôn ngữ
và ngữ dụng về ngữ vực và thuật ngữ y học tiếng Anh trong dịch thuật. Bài
báo cũng cung cấp một số phương thức gợi ý để dịch các thuật ngữ y học.
Tác giả hy vọng bài báo mang lại ý nghĩa thực tiễn cho sinh viên ngành y
và những ai quan tâm đến dịch thuật y học.
Từ khóa: thuật ngữ y học; dịch thuật y học; dịch thuật chuyên ngành; từ
viết tắt trong y học; ghép nhân danh.
Abstract
The translation of medical terms from English into Vietnamese is a
fascinating but challenging subject area in translation studies. However, in
Vietnamese colleges and universities, specialised translation in general and
medical translation in particular get very little special attention. An aim of
the study is to analyse and consider linguistic and pragmatic aspects ofregisters and medical terminology in translation. Some suggested
procedures for translating medical terms are also provided in the paper. It
is hoped that the paper is of practical significance to medical students and
to those who are interested in medical translation.
Keywords: medical terminology; medical translation; specialised
translation; medical abbreviations and acronyms; eponyms.
Dịch thuật chuyên ngành là thành phần quan trọng trong dịch thuật học.
Trong dịch thuật chuyên ngành, dịch thuật y học đóng một vai trò quan
trọng và được bàn luận khá nhiều trong lĩnh vực dịch thuật Anh-Việt và
Việt-Anh [Vương Thị Thu Minh (12); Phạm Thị Minh Chiên (4); Nguyễn
Phước Vĩnh Cố (9)] và nổi bật nhất trong lĩnh vực nghiên cứu này có công
trình “Dịch Thuật Văn Bản Khoa Học” của Lưu Trọng Tuấn (7). Tuy nhiên,
việc học tiếng Anh y học tại các trường y và và vai trò dịch thuật y học tại
các trường đại học ngoại ngữ ở Việt nam khá mờ nhạt. Chính vì vậy, trong
bài báo này, chúng tôi phân tích các thuật ngữ y học, dùng kiến thức về gốc
từ, hậu tố, tiền tố và các đặc trưng của ngôn ngữ y học như từ phổ thông
mang nghĩa chuyên ngành, từ viết tắt, từ đồng nghĩa, ghép nhân danh, đồng
thời cung cấp một số phương thức gợi ý để dịch thuật ngữ y học. Chúng tôi
hy vọng nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ cho dịch thuật nói chung và
dịch chuyên ngành y nói riêng.
Theo Alison [2], gần ¾ thuật ngữ y học tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng
Hy lạp và La tinh cổ mà các gốc từ (roots) vốn là cơ sở của từ Hy lạp/La
tinh đó. Có thể nhận thấy một số gốc từ Hy lạp và La tinh ở các bộ phận cơ
thể như “ophthalm-” [hy lạp]/“ocul-” [la tinh] (eye: mắt); “mast-” [hy lạp]/
“mamm”- [la tinh] (breast: vú); “thorac-” [hy lạp]/“pect-” [la tinh] (chest:
ngực); “phleb-” [hy lạp]/“ven-” [la tinh] (vein: tĩnh mạch); “oophor-” [hy
lạp]/“ovar-” [la tinh] (ovary: buồng trứng), v.v. Ưu điểm đầu tiên dễ nhận
thấy của hệ thuật ngữ này là do thuộc về tiếng Hy lạp và La tinh cổ nên
không thay đổi (xưa viết như thế nào nay viết như thế ấy); hơn nữa lại được
sử dụng phổ biến trong cộng đồng y học trên thế giới nên được xem như
ngôn ngữ “quốc tế”. Kế đến, theo các nhà nghiên cứu thuật ngữ tiếng Anh
y học, nếu người học/đọc/dịch tiếng Anh y học biết nghĩa của từng bộ phận
nhỏ hơn thì có thể ra suy diễn ra được nghĩa của một thuật ngữ. Ví dụ thuật
ngữ y học như carditis (viêm tim), cardialgia (đau vùng tim), cardiocele
(thoát vị tim), cardiodynia (đau vùng tim), cardiopathy (bệnhtim), cardiophobia (chứng sợ mắc bệnh tim), cardioplegia (làm liệt tim)…
đều có gốc từ cardi- (heart: tim) và các hậu tố chỉ bệnh tật hay triệu chứng
như -itis (viêm), -algia (đau, sự khó chịu), -cele (thoát vị, lồi), -dynia (đau,
sự khó chịu), -phobia (nỗi sợ), -plegia (đột quỵ, liệt). Các thuật ngữ khác
liên quan đến hệ tim mạch như cardiotomy (thủ thuật mở
tim), cardiectomy (th/th cắt bỏ tâm vị), cardiorrhaphy (th/th khâu
tim), cardiocentesis (th/th chọc tim), cardioplasty (th/th tạo hình thực
quản/tâm vị), cardioscopy (phép soi tim)… cũng có gốc từ cardio- (tim/tâm
vị) và các hậu tố chỉ phương thức phẫu thuật như -tomy (rạch, mở, cắt), -
ectomy (cắt bỏ, lấy đi), -rrhaphy (khâu), -centesis (chọc, dò), -
scopy (soi)…Ở một vài trường hợp, cần tra từ điển y học để hiểu nghĩa đầy
đủ của một thuật ngữ. Ví dụ thuật ngữ ankyloglossia, nếu phân tích từ, tiền
tố ankyl có nghĩa là cong và gốc từ gloss(o) có nghĩa là cái lưỡi nhưng trong
từ điển y học, từ này có nghĩa là “chứng cứng lưỡi” (tongue-tied). Đáng lưu
ý một số hậu tố tính từ như “ic”, “ac”, “ar” khi kết hợp với các gốc từ các
hệ như “hepat(o)”,“cardi(o)” cho ra các tính từ như “hepatic”, “cardiac”
… thì các tính từ chỉ cơ thể có nguồn gốc Hy lạp/La tinh này được giới y
học ưa thích hơn. Thay vì nói “disease of the liver”, “heart attack”, các bác
sĩ ưa dùng “hepatic disease”, “cardiac attack”, v.v. Sau đây là một số tính
từ chỉ cơ thể có nguồn gốc Hy lạp/La tinh thường gặp: hepatic and
renalimpairment (rối loạn thận và gan), duodenal ulcer (loét tá
tràng), cervical cancer (ung thư cổ tử cung), coronary patient (bệnh nhân
mạch vành), haemorrhagic fever (sốt xuất huyết), v.v.
Một trong những đặc trưng của ngôn ngữ chuyên ngành nói chung và
ngôn ngữ y khoa nói riêng là các thuật ngữ mang nghĩa chuyên ngành được
mượn từ ngôn ngữ phổ thông. Nếu ở ngôn ngữ pháp lý có các thuật ngữ
được mượn từ ngôn ngữ phổ thông như maintenance (tiền chu
cấp), consideration (tiền/điều khoản bồi hoàn), title (quyền đối với sở hữu
tài sản), shall (có bổn phận/có nghĩa vụ) và ngôn ngữ du lịch
là carrier (hãng vận tải chở hành khách), package trong package tour (tour
trọn gói), baggage trong baggage reclaim (nơi trả hàng hóa) … thì ở ngôn
ngữ y khoa có các thuật ngữ như chief/present complaint (lý do nhập
viện/khai bệnh), history trong cụm từ past medical history (tiền sử bệnh),
và trong history of the present illness (bệnh sử), incompetent cervix/cervical
insufficiency (bất túc cổ tử cung/tử cung không đậu thai), mitral
incompetence/insufficiency (hở van hai lá), tricuspid incompetence (hở van
ba lá), colonicirrigation (súc ruột), drug tolerance (lờn thuốc/quen vớithuốc), tính từ “tender” thường có nghĩa “âu yếm, dịu dàng” nhưng ở ngữ
cảnh y học lại có nghĩa “rờ/chạm vào thấy đau” như “My leg is still
very tender where it was bruised”. Từ “culture” theo nghĩa thông thường
là “văn hóa” nhưng trong ngữ cảnh y học lại có nghĩa “nuôi cấy một nhóm
vi khuẩn để phục vụ cho nghiên cứu y tế và khoa học” như “a culture
of cholera germs” (sự cấy vi trùng bệnh tả), “a culture of cells from the
tumour” (sự cấy tế bào từ các mô),“stool/sputum culture” (sự cấy
phân/đờm), v.v. Có thể dẫn chứng thêm một số ví dụ ở hệ tiết niệu-sinh dục
mượn ở ngôn ngữ phổ thông như frequency (tiểu nhiều lần), urgency (tiểu
gấp, mắc tiểu), dribbing (tiểu lắt nhắt, đái nhỏ giọt), hesitancy (không tiểu
được)…
Nhiều từ viết tắt, dù quen thuộc với những người hoạt động trong lĩnh
vực y học nhưng có vấn đề (do lạ lẫm) với người dịch. Người Việt thường
chấp nhận từ viết tắt trong tiếng Anh hơn là trong tiếng Việt. Ví dụ, bệnh
“chronic obstructive pulmonary disease” được dịch là “bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính” nhưng từ tắt trong văn bản tiếng Việt là “COPD” hơn là
“BPTNMT”, bệnh “gastroesophageal reflux disease” tương đương với
tiếng Việt là “bệnh trào ngược dạ dày - thực quản” nhưng từ viết tắt trong
văn bản tiếng Việt lại thường dùng từ tiếng Anh là “GERD”, thuật ngữ
“CABG” viết tắt của các từ tiếng Anh (Coronary Artery Bypass Graft: phẫu
thuật bắc cầu động mạch vành) lại rất quen thuộc với bệnh nhân tim mạch
vành hơn là từ tắt ở tiếng Việt là “PTBCDMV”) và điển hình nhất căn bệnh
thế kỷ, dù tiếng Việt có 2 tên gọi: “bệnh liệt kháng/hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải” nhưng lại được biết nhiều đến trong tiếng Việt bởi từ
tắt tiếng Anh là “AIDS/SIDA” ở tiếng Pháp.
Trong các phương pháp chẩn đoán hình ảnh (diagnostic imaging), tiếng
Việt mượn các thuật ngữ viết tắt tiếng Anh như “CT”
(computed/computerised tomograph: chụp cắt lớp điện toán/vi tính), “MRI”
(magnetic resonnance imaging: chụp cộng hưởng từ), “PET” (positron
emission tomgraph: chụp cắt lớp phát xạ positron), “ECG/EKG”
(electrocardiogram: điện tâm đồ),v.v. Có thể bắt gặp nhiều thuật ngữ viết
tắt như thế trong nhiều văn bản y học. Sau đây là một trong nhiều ví dụ trên
ở một website y học: “có nhiều phương pháp để chẩn đoán ung thư phổi và
các di căn lên não, trong đó có CT, MRI và PET/CT có vai trò quan trọng”.
Các từ viết tắt phổ biến trong giới y học lại là gốc từ chỉ các bộ phận
trong cơ thể người như xương (bones), cơ (muscles), thần kinh (nerves), da
(skin). Trong thuật ngữ y học, cái gì liên quan đến xương thường được nói
đến như “oste”, cơ là “myo”, thần kinh là “neur” và da là “derm”. Các từ
tắt này có nhiều ở các bộ phận khác trong cơ thể như “gastro” chỉ bao tử,
“colo”/”colon” chỉ ruột kết/ruột già, “rhino” là mũi, “oculo” liên quan đến
mắt và thị giác, “hepat” liên quan đến gan… Một số từ tắt khác (các hậu tố)
chỉ các phương thức phẫu thuật như “-tomy” (rạch, cắt, mở), “ectomy” (cắt
bỏ, lấy đi), “stomy” (mở thông) hoặc chỉ kỹ thuật chẩn đoán như “-gram”
(hình ảnh, bản ghi), “-graphy” (kỹ thuật dùng để ghi), “scopy” (soi). Hiểu
được nghĩa các từ tắt này là có thể suy diễn được nghĩa của một thuật ngữ
y học tiếng Anh (xem mục 2)
Có thể chia ba phần chính trong một bản kiểm tra sức khỏe (medical
record): a) tình trạng bệnh nhân; b) khám bệnh; c) nhập viện.
Ở phần a, thường có các từ tắt sau: A & W (awake: tỉnh táo) & (well: sức
khỏe), A/O (alert: tỉnh táo) & (oriented: định hướng được). A/O còn được
dùng khi bệnh nhân được đánh giá sau một tai nạn giao thông hay bị thương
nặng. A.S.A là từ tắt được dùng để ghi sức khỏe tổng quát của bệnh nhân.
A.A.S1: bệnh nhân có sức khỏe tốt. A.S.A2: bệnh nhân có bệnh nhẹ.
A.S.A3: bệnh nhân có bệnh nặng. A.S.A4: bệnh nhân có bệnh đe dọa đến
tính mạng. Còn từ tắt DOA (death on arrival) có nghĩa bệnh nhân chết khi
mới nhập viện.
Ở phần b, có từ tắt CC hoặc c/o viết tắt của “chief complaint” và “complain
of” có nghĩa là “lời khai bệnh” hay “lý do nhập viện”. Kết quả sức khỏe nếu
ghi bằng từ tắt “PERRLA” có nghĩa là “đồng tử đều, tròn, phản ứng với ánh
sáng” (pupils are equal, round and reactive to light). HEENT là từ viết tắt
của các con chữ đầu của các từ (head: đầu), (ears: tai), (eyes: mắt), (nose:
mũi) và (throat: họng). Một chấn thương có thể ghi tắt là HRST có nghĩa
là: có nhiệt (heat), đỏ lên (reddening), sưng (swelling), và đau (tenderness).
Nếu kết quả kiểm tra sức khỏe được ghi là WNL thì từ tắt này là một tin vui
đối với bạn vì nó có nghĩa là “trong giới hạn bình thường” (within normal
limits).
Ở phần c, từ tắt Hx (viết tắt của từ history) có nghĩa là “tiền sử của bệnh
nhân” (patient’s history). Sx là “triệu chứng” (symtoms) còn Tx lại có nghĩa
“điều trị” (treatment). NPO (được viết tắt của các từ La tinh Nil Per Os) cónghĩa là “không được ăn uống” (nothing by mouth). NKA có nghĩa là
“(bệnh nhân) có dị ứng thuốc chưa được biết đến” (no known allergies).
Cũng như từ vựng phổ thông, thuật ngữ y học (medspeak) cũng có nhiều
từ đồng nghĩa. Từ đồng nghĩa là từ có cùng nghĩa hoặc gần nghĩa với từ
khác. Ở tiếng Anh cũng như tiếng Việt, một thuật ngữ chuyên môn cũng có
một hoặc hơn một từ đồng nghĩa ở từ vựng phổ thông như ở tiếng Anh là
“acute cerebrovascular accident/stroke” thì ở tiếng Việt là “tai biến mạch
máu não/đột quỵ”, “myocardial infarction/heart attack” ở tiếng Anh còn ở
tiếng Việt lại là “nhồi máu cơ tim/đau tim”. Mề đay (urticaria) còn được gọi
là phát ban thì ở tiếng Anh lại có các từ đồng nghĩa như “hives”, “nettle
rash”, “welts”.
Trong y học, ghép nhân danh là bệnh được đặt tên người tìm ra bệnh hay
theo tên một địa danh nơi bệnh được phát hiện. Ví dụ: hội chứng Barlow
(tên của Thomas Barlow), sốt Lassa (tên địa danh ở Nigeria). Từ ghép nhân
danh là một thách thức cho người dịch. Trước hết là vì số lượng của chúng.
Thứ đến, xét theo góc độ dịch thuật, chúng không theo một quy tắc nào cả.
Theo Newmark (8), các từ ghép nhân danh có thể hiểu ở quốc gia này nhưng
lại khó hiểu ở quốc gia khác. Vấn đề sẽ phức tạp hơn khi ở tiếng Anh có
một số/ nhiều từ ghép nhân danh được dùng để mô tả một bệnh. Một ví dụ
điển hình là “bệnh bướu giáp lồi mắt” (exophthalmic goiter) lại có những
ghép nhân danh đồng nghĩa như “Basedow’s disease”, “Begbie’s disease”,
“Graves’disease”, “Flajani’s disease”. Ở một số trường hợp, tiếng Việt bên
cạnh có từ tương đương với ghép nhân danh còn dùng chung ghép danh
nhân ở tiếng Anh như “Parkinson’s disease” được dịch ra tiếng Việt là
“bệnh liệt rung”/“bệnh Parkinson”, “Alzheimer’s disease” vừa được gọi là
“bệnh mất trí nhớ” hoặc là “bệnh Alzheimer”.
Ở tiếng Việt nếu thuật ngữ “thủy đậu” đồng nghĩa với từ vựng “trái
rạ” thì ở tiếng Anh “varicella” đồng nghĩa với “chickenpox”. Tuy nhiên,
có những thuật ngữ chuyên môn ngoài việc đồng nghĩa với từ vựng phổ
thông còn đồng nghĩa với một số ghép nhân danh. Theo Dermatology
Therapy: A-Z Essentials (6), thuật ngữ infantile scurvy (bệnh thiếu vitamin
C) ngoài việc đồng nghĩa với từ phổ thông “deficiency of vitamin C” thì
còn đồng nghĩa với các ghép nhân danh như “Barlow’s disease”, “MollerBarlow disease”, “Barlow’s syndrome”, “Moller’s disease”. Việc chọn
một từ đồng nghĩa trong các từ đồng nghĩa hoặc từ đồng nghĩa với các từ
ghép nhân danh trong dịch/viết là tùy thuộc thể loại/ loại văn bản và độc
giả cuả văn bản được dịch.
Từ dễ gây sự nhầm lẫn là các từ trông có vẻ tương tự hoặc nghe có vẻ
giống nhưng nghĩa hoàn toàn khác vì vậy thường gây ra sự nhầm lẫn.
Các từ tắt dễ gây ra sự nhầm lẫn trong dịch tiếng Anh y học là:
Từ tắt “u” thay cho từ “unit” (đơn vị) dễ dịch/đọc nhầm là “zero” (o),
“four” (4) hoặc “cc”. Nên viết là “unit”.
Từ tắt “iu” thay cho từ “international unit” (đơn vị quốc tế) dễ dịch/đọc
nhầm với “iv” viết tắt của từ “intravenous” (tĩnh mạch) hoặc số mười (10).
Đáng chú ý là các từ tắt có nguồn gốc La tin như “A.S.” (left ear: tai trái),
“A.D.” (right ear: tai phải), “A.U.” (both ears: hai tai) và “O.S.” (left eye:
mắt trái), “O.D.” (right eye: mắt phải), “O.U.” (both eyes: hai mắt). “A.S.”
dễ nhầm với “O.S.”, “A.D.” dễ nhầm với “O.D.”, v.v. Nên viết “left ear”,
“right eye”.
Vì vậy, Uỷ ban liên hiệp giám định các cơ quan y tế (JCAHO)
cấm sử dụng các từ tắt nói trên.
Điển hình nhất các cặp từ dễ gây nhầm lẫn trong dịch là “dysphagia”
(chứng khó nuốt) và “disphasia” (chứng mất khả năng sử dụng ngôn ngữ),
“humeral” (thuộc xương cánh tay) và “humoral” (liên quan đến các dịch
trong cơ thể) , “malleolus” (mắt cá) và “malleus” (xương búa), v.v.
Đây là cặp tiền tố dễ gây ra nhầm lẫn lại có thể kết hợp cùng một từ, cho
nghĩa rất khác nhau. “Hyper” (tăng, nhiều, quá) đối lập với “hypo” (giảm,
thiếu) kết hợp với các từ như “tension”, “menorrhea”, “sensitive”,
“thyroidism”, “glyc(a)emia”… cho ra các cặp từ đối lập về nghĩa như
“hypertension (cao huyết áp)/ hypotension (hạ huyết áp)”,
“hypermenorrhea (chứng đa kinh)/ hypomenorrhea (chứng kinh ít)”,
“hypersensitive (sự tăng cảm)/ hyposensitive (sự giảm cảm)”,
“hyperthyroidism (tăng năng tuyến giáp)/ hypothyroidism (giảm/ thiểu năng
tuyến giáp)”, “hyperglyc(a)emia (tăng đường huyết)/
hypoglyc(a)emia (giảm đường huyết)”, v.v
Hai gốc từ trong hệ niệu-sinh dục là “ureter(o)”: (niệu quản) và
“urethr(o)”: (niệu đạo) và danh từ của chúng “ureter” và “urethra” là
những từ dễ nhầm lẫn nhất vì chúng trông có vẻ tương tự và nghe có vẻ
giống ở tiếng Anh và tiếng Việt. Nếu gặp các thuật ngữ tiếng Anh
như “ureterography”/“urethrography” mà chúng ta không phân biệt được
hai gốc từ trên thì dễ lầm lẫn giữa “chụp X-quang niệu quản” và “chụp Xquang niệu đạo” và ngược lại nếu ta gặp các thuật ngữ tiếng Việt như “tạo
hình niệu quản”/ “tạo hình niệu đạo”, “cắt bỏ niệu quản”/ “cắt bỏ niệu
đạo”, “mở thông niệu quản”/ “mở thông niệu đạo” thì người dịch sẽ lúng
túng giữa 2 gốc từ “ureter(o)” và “uerethr(o)” để lựa chọn giữa các từ
sau: “ureteroplasty/ urethroplasty”, “ureterectomy/ urethrectomy” và
“ureterotomy/ urethrotomy”.
Việc hiểu biết hệ thuật ngữ là bí quyết để có một bản dịch y học hiệu quả
nhưng như thế vẫn chưa đủ. Người dịch tiếng Anh y học phải có những kiến
thức đầy đủ về cả ngôn ngữ gốc lẫn ngôn ngữ đích/dịch và kiến thức cuối
cùng nhưng không kém phần quan trọng nằm trong câu nhận xét của Morry
Sofer [11]: “Người dịch chuyên nghiệp cần biết không chỉ đơn thuần ngôn
ngữ gốc và ngôn ngữ đích/dịch. Họ còn phải phát triển kiến thức chuyên
môn ở các lĩnh vực chuyên ngành mà họ dịch”.