Vô sinh nam
Xét nghiệm tinh dịch đồ gần như là thăm dò duy nhất Chia sẻ
GIỚI THIỆU
Vô sinh nam chiếm khoảng 20% các cặp vợ chồng vô sinh. Thăm dò các
nguyên nhân vô sinh ở nam giới cũng rất hạn chế, xét nghiệm tinh dịch đồ gần như
là thăm dò duy nhất để đánh giá khả năng sinh sản của nam giới.
Kết quả xét nghiệm tinh dịch đồ bất thường cho phép tìm ra được nguyên nhân
nhưng kết quả bình thường cũng không cho phép loại trừ nguyên nhân vô sinh do
nam giới. Mặt khác xét nghiệm tinh dịch đồ lại thay đổi rất nhiều, phụ thuộc vào
thời điểm làm xét nghiệm, chính vì vậy khi kết quả bất thường thì cần phải kiểm tra
lại sau một thời gian để đảm bảo tính khách quan và chính xác.
- Tiền sử thói quen hút thuốc, uống rượu, nhiễm độc, tiếp xúc hoá chất, …
- Tiền sử hôn nhân và thai sản: Lấy vợ mấy năm, thời gian từ khi muốn có con đến nay.
- Tiền sử bệnh tật: Quai bị, bệnh mạn tính, bệnh viêm nhiễm-lây truyền qua đường tình dục, …
- Đặc điểm nhu cầu sinh lý, sinh hoạt tình dục, có rối loạn cương dương, rối loạn xuất tinh, …?
- Tiền sử gia đình về sinh sản: Trong gia đình có ai chậm con không?
- Phía vợ: đã khám cho vợ chưa? Các bất thường liên quan đến sức khoẻ sinh sản của người vợ: Nhu cầu đòi hỏi về sinh lý, tình hình kinh nguyệt (chu kỳ kinh, màu sắc kinh nguyệt, đau khi có kinh), đau khi giao hợp,…
- Toàn thân: trạng thái tinh thần kinh, hình dáng bên ngoài, vú, hệ thống lông
(lông mu, lông nách),…
- Thực thể: bệnh nội tiết, tim mạch, hệ tiết niệu, …
- Tại chỗ: bộ phận sinh dục ngoài: Dị tật (không có tinh hoàn trong bìu, lỗ đái
thấp, cong vẹo dương vật, …), viêm nhiễm, chảy mủ hoặc dịch bất thường.
- Nhìn: vị trí lỗ niệu đạo; các hình dạng và kích thước khác nhau của dương vật và bìu, cách mọc lông mu.
- Sờ: Sờ tinh hoàn đánh giá hình dạng, kích thước, mật độ, vị trí. Sờ nắn mào tinh hoàn (giãn, nang mào tinh,…). Sờ nắn đám rối tĩnh mạch tinh. Ống dẫn tinh (xem có ống dẫn tinh không, tính chất ống dẫn tinh, hay bất sản ống dẫn tinh).
Các điều kiện lấy mẫu xét nghiệm tinh dịch đồ: kiêng giao hợp từ 2 ngày đến
7 ngày, dùng ống đựng tinh dịch tiêu chuẩn và vô khuẩn. Không nên lấy tinh dịch từ
nhà mang đến, không được dùng bao cao su thông thường khi lấy mẫu (vì các bao
cao su thông thường có chứa chất diệt tinh trùng)
- Đánh giá đại thể:
- Sự hoá lỏng của tinh dịch (< 60 phút/37oC)
- Thể tích và màu sắc (bình thường màu trắng sữa)
- Xác định pH (≥ 7,2). (nếu < 7,2 thì có thể tắc ống dẫn tinh 2 bên)
- Tính chất di động của tinh trùng. Dựa vào tốc độ di chuyển của tinh trùng chia thành 4 loại: (A) di động nhanh về phía trước ( ≥ 25 µm/s), (B) di động chậm chạp hoặc lờ đờ về phía trước (5 µm/s - < 25 µm/s), (C) Di động tại chỗ, không tiến tới (< 5 µm/s) và (D) nằm im, không di động (vận tốc = 0)
- Mật độ tinh trùng
- Các tế bào khác: tiền tinh trùng, tế bào biểu mô, bạch cầu
- Ngưng kết tinh trùng (tinh trùng kết đám). Nếu các tinh trùng ngưng kết, dính vào nhau nhiều sẽ hạn chế khả năng di chuyển của tinh trùng và hạn chế khả năng thụ tinh.
- Hình thái tình trùng
- Các test đánh giá sự trưởng thành nhân tế bào
- Các test khảo sát tính chất nguyên vẹn của màng tinh trùng
- Tình trạng cực đầu của tinh trùng: Kích thích phản ứng cực đầu trong môi trường thí nghiệm
- Tương tác giữa tinh trùng và noãn: Test thâm nhập noãn Hamster (HOP-test). Kỹ thuật xâm nhập nửa vùng trong suốt
- Phân tích tinh trùng có hỗ trợ bằng máy tính (CASA): Phân tích các vệt di chuyển của tinh trùng
- Túi tinh chứa nhiều fructose, tuyến tiền liệt chứa phosphatase acid và kẽm, mào tinh hoàn chứa carnitin và α-glucosidase.
- Dựa vào các đặc điểm này có thể chẩn đoán tắc đoạn nào của đường xuất tinh.
- Định lượng các giá trị cơ bản của các nội tiết tố LH, FSH, prolactin, estradiol,
testosterone. Testosterone là một chỉ điểm quan trọng nhất về chức năng của tinh hoàn.
- Ngoài ra, có thể định lượng inhibin B. Bên cạnh FSH, inhibin B là một chỉ điểm
nội tiết quan trọng nhất của quá trình sinh tinh (chức năng ngoại tiết của tinh hoàn).
Khi có rối loạn quá trình sinh tinh thì nồng độ inhibin B thấp và FSH tăng cao
- Các chẩn đoán chức năng (các test kích thích hormon):
- Test hCG (phát hiện được khả năng hoạt động về nội tiết của tinh hoàn do giống cấu trúc với LH)
- Test kích thích GnRH (kiểm tra khả năng sản xuất nội tiết tố hướng sinh dục của tuyến yên)
- Bệnh vú to: ngoài xét nghiệm định lượng estradiol, làm thêm xét nghiệm α- fetoprotein, hCG, LDH-cholesterol
- Các rối loạn tổng hợp testosterone: định lượng các chất chuyển hoá trung gian
- Kháng androgen: phân tích sinh học phân tử các thụ thể của androgen,….
- Xét nghiệm về di truyền học (nhiễm sắc thể, gen) để đánh giá mức độ rối loạn nhiễm sắc thể và gen.
- Chọc hút dịch mào tinh hoàn tìm tinh trùng.
- Sinh thiết tinh hoàn (dùng kim sinh thiết hoặc mổ sinh thiết).
- Siêu âm hệ tiết niệu - sinh dục (lưu ý: tuyến tiền liệt, túi tinh, tinh hoàn, mào tinh hoàn, tĩnh mạch tinh) xem có bất thường không? Có giãn tĩnh mạch tinh không? Đo kích thước tinh hoàn…
- Chụp ống dẫn tinh: mục đích tìm chỗ tắc trên đường dẫn tinh. Cách thức làm: gây tê tại chỗ, rạch da bìu, bộc lộ ống dẫn tinh, mở ống dẫn tinh, bơm thuốc cản quang vào ống dẫn tinh và chụp X-quang. Ống dẫn tinh lưu thông tốt khi thấy thuốc cản quang làm hiện rõ ống dẫn tinh, túi tinh, bóng tinh và bóng bàng quang trên phim X quang. Nếu thấy thuốc cản quang dừng lại trên đường đi chứng tỏ có bít tắc.
- Vô sinh do nam giới cũng chiếm một tỷ lệ tương đương với vô sinh nữ giới. Chẩn đoán vô sinh do nam giới không phức tạp như chẩn đoán vô sinh ở nữ giới, xét nghiệm thăm dò đơn giản, không xâm nhập, chính vì vậy khi thăm dò nguyên nhân vô sinh bao giờ cũng phải làm song song cho cả hai cặp vợ chồng.
- Việc điều trị nguyên nhân vô sinh do nam giới cũng khó khăn hơn cho nữ giới, và hầu hết các trường hợp điều trị cho người chồng lại phải tiến hành điều trị và thực hiện các thủ thuật trên người vợ (kích thích buồng trứng, bơm IUI, thậm chí chọc hút noãn, chuyển phôi). Với sự phát triển của các kỹ thuật trong hỗ trợ sinh sản việc điều trị vô sinh cho nam giới cũng dựa vào nhiều các kỹ thuật này, đặc biệt là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Tuy nhiên cũng không nên quá lạm dụng vào các kỹ thuật này vì chi phí rất tốn kém. Cần cân nhắc các phương pháp điều trị hợp lý cho từng người bệnh cụ thể.